ỨNG DỤNG THEO DÕI ĐƯỜNG HUYẾT LIÊN TỤC TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 MẮC BỆNH MẠCH VÀNH
ỨNG DỤNG THEO DÕI ĐƯỜNG HUYẾT LIÊN TỤC TRÊN
BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 MẮC BỆNH MẠCH VÀNH
ThS.BS. Tô Anh Tuấn, BS. Võ Xuân Ánh,
Khoa
Nội thận – Nội tiết, Bệnh viện Đa khoa khu vực miền núi phía Bắc Quảng Nam
TÓM TẮT: Bệnh đái tháo đường được xem như một bệnh tương đương với bệnh mạch vành. Đã có
nhiều nghiên cứu cho thấy tăng đường huyết làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch
và bệnh mạch vành. Kiểm soát đường huyết nghiêm ngặt được khuyến khích ở cả bệnh
ĐTĐ type 1 và 2 vì những lợi ích đã được chứng minh về bảo vệ mạch máu nhỏ, tuy
nhiên bảo vệ chống lại biến chứng mạch máu lớn chỉ được thiết lập ở bệnh ĐTĐ
type1. Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên những người ĐTĐ type1 đã chứng minh
rằng sử dụng theo dõi đường huyết liên tục (CGM) có thể cải thiện A1C và giảm
các đợt hạ đường huyết. Tuy nhiên, hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu ứng dụng
phương pháp theo dõi đường huyết liên tục trong thực hành lâm sàng, đặc biệt đối
với người lớn mắc ĐTĐ type 2.
1. Ca lâm sàng ứng dụng phương pháp theo dõi đường
huyết liên tục trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 mắc bệnh mạch vành:
Bệnh nhân Trần Thị Tuyến S, 63 tuổi vào viện ngày
09/06/2022, lý do mệt mỏi, BMI: 22,3 kg/m2, vòng bụng: 83cm, thích
ăn đồ ngọt, gần đây do thời tiết nắng nóng nên thường xuyên uống thêm nước cam.
Đường máu tĩnh mạch: 26,7 mmol/l. tiền sử hai lần đặt stent mạch vành (năm
2020), HbA1c (9/2/2022: 7%), đái tháo đường type 2 đã 5 năm, hiện điều trị
Metformin 2g/ngày, Glimepiride 4g/ngày, Dapagliflozin 10mg/ngày, không có tiền
sử mắc bệnh suy thận mạn (ure 24/9/2021:4,8 mmol/l, creatinine 24/9/2021: 71
mmol/l), các xét nghiệm khác:
Creatinin (9/6/2022) |
136 |
umol/L |
Ure (9/6/2022) |
11 |
mmol/L |
Cholesterol máu |
11,7 |
mmol/L |
Triglycerid máu |
2,7 |
mmol/L |
HDL – C |
1,0 |
mmol/L |
LDL - C |
9,6 |
mmol/L |
HbA1c |
14,9 |
mmol/L |
Creatinine (24/06) |
81 |
mmol/L |
Ure (24/06) |
4,5 |
mmol/L |
Theo dõi đường huyết mao mạch
Với liều thuốc: Insulin 30/70 TDD trước ăn 30
phút 6h: 18 UI - 17h: 12UI, bệnh nhân
được theo dõi tổn thương thận cấp trước thận nghi do mất nước và tạm thời ngưng
thuốc viên.
Phân tầng nguy cơ tim mạch: rất cao
Đích điều trị mức LDL-C cần đạt < 1,8
mmol/l, do đó bệnh nhân được điều trị với Rosuvastatin 20mg.
Tiền sử đặt stent mạch vành 2 lần: bệnh nhân
được cho dùng Aspirin 81mg/ngày.
Siêu âm tim: Dày đồng tâm thất trái
Van 2 lá hở 1/4
Các buồng tim không giãn,
co bóp cơ tim bảo tồn EF 66%
Không thấy rối loạn vận động
vùng
Chức năng tâm thu bình thường,
tâm trương thất trái giảm
Không tràn dịch màng ngoài
tim, áp lực động mạch phổi không tăng.
Bệnh nhân được tư vấn theo dõi đường huyết
liên tục từ ngày 21/06/2022 đến ngày 05/07/2022
Bảng 1. Biểu đồ đường huyết của bệnh nhân
ngày 21/06 và 22/06/2022
Bệnh nhân được tư vấn chế độ ăn uống phù hợp
và điều chỉnh liều thuốc
Insulin 30/70 TDD trước ăn 30 phút 6h: 22
UI - 17h: 14 UI
Metformin 2g/ngày + Sitagliptin 100mg/ngày +
Dapagliflozin 10mg/ngày (bệnh nhân đã được điều trị tổn thương thận cấp và ure,
creatinine máu quay về giá trị bình thường).
Chế độ ăn của bệnh nhân được khuyên theo chế
độ ăn DISH, khuyên bệnh nhân ăn carbohydrate từ trái cây, rau, ngũ
cốc nguyên hạt và sữa ít béo và tránh nước ngọt như soda, nước trái cây.
Chế độ ăn “Dish”: Mỗi bữa ăn nên ăn bằng 1 đĩa có đường
kính khoảng 23cm, chia làm 3 phần như hình vẽ. Nên ăn kèm bữa phụ.
Với người bị tiểu đường nên chia làm
nhiều bữa nhỏ để tránh tăng đường huyết nhiều sau khi ăn. Có
thể chia làm 5-6 bữa nhỏ trong ngày, đặc biệt là người tiêm Insuline.
Với bệnh nhân điều trị bằng Insulin tác dụng chậm có
thể bị hạ đường huyết trong đêm, do vậy nên cho ăn thêm bữa
phụ trước khi đi ngủ. Các bữa phụ nên dùng thêm 1 ly sữa dành cho người
tiểu đường, hoặc 1 bánh flan nhỏ, hoặc 1 sữa chua ít đường, hoặc 2 cái bánh
quy, hoặc 1 quả bắp. Nên chế biến các món ăn theo cách luộc, hấp, hạn chế chiên
xào, hầm nhừ.
Bảng 2. Chế độ ăn “Dish” dành cho bệnh nhân
đái tháo đường
Bảng 3. Biểu đồ đường huyết của bệnh nhân
ngày 25/06 - 27/06/2022
Bệnh nhân tiếp tục được điều chỉnh thói quen
sống + điều chỉnh thuốc:
Insulin 30/70 TDD trước ăn 30 phút 6h: 24
UI - 17h: 16 UI + duy trì thuốc uống
như trên.
Bảng 4. Biểu đồ đường huyết của bệnh nhân
ngày 28/06 - 29/06/2022
Bệnh nhân xuất hiện hạ đường huyết thời điểm
11h và 22h-23h.
Bảng 5. Biểu đồ đường huyết của bệnh nhân
ngày 30/06 - 01/07/2022
Bệnh nhân được điều chỉnh thuốc:
Insulin 30/70 TDD trước ăn 30 phút 6h: 20 UI
- 17h: 10 UI + duy trì thuốc uống như trên. Đường máu của bệnh nhân được kiểm
soát tốt với gần như hầu hết thời gian trong ngày đường máu dao động trong mục
tiêu (từ 4-10 mmol/l) và không có cơn hạ đường máu.
Bảng 6. Biểu đồ đường huyết của bệnh nhân
ngày 02/07 – 03/07/2022
Bảng 7. Kết quả theo dõi đường huyết trong 14
ngày bằng máy theo dõi đường huyết liên tục.
2.Mối liên quan giữa bệnh đái tháo đường và bệnh mạch vành
So với những người không mắc bệnh đái tháo đường
(ĐTĐ), những người mắc bệnh ĐTĐ có tỷ lệ mắc bệnh mạch vành (CHD) cao hơn, với
mức độ thiếu máu mạch vành nặng hơn và có nhiều khả năng bị nhồi máu cơ tim
(NMCT) và thiếu máu cơ tim im lặng.
2.1. Bệnh đái tháo đường như một bệnh tương
đương với bệnh mạch vành -
Báo cáo của Chương trình Giáo dục Cholesterol Quốc gia của Hoa Kỳ và các hướng
dẫn từ Châu Âu coi bệnh ĐTĐ type 2 là một bệnh tương đương với CHD, do đó nâng
bệnh ĐTĐ lên loại có nguy cơ cao nhất [14], [13] . Phân loại này một phần dựa trên quan sát rằng
bệnh nhân đái tháo đường type 2 không có NMCT trước đó (tuổi trung bình là 58)
có cùng nguy cơ mắc NMCT (tương ứng là 20 và 19%) và tử vong do mạch vành (15
so với 16%) như bệnh nhân không mắc đái tháo đường đã từng bị NMCT trước đó (tuổi
trung bình là 56) [17]. Các phát hiện tương tự đã được ghi nhận
trong các nghiên cứu khác.
Tầm quan trọng của mối liên quan giữa bệnh
ĐTĐ và CHD có thể được minh họa bằng những phát hiện từ Nghiên cứu của
Framingham và Thử nghiệm can thiệp nhiều yếu tố nguy cơ (MRFIT). Trong Nghiên cứu
Framingham, sự hiện diện của bệnh ĐTĐ đã làm tăng gấp đôi nguy cơ mắc bệnh tim
mạch được điều chỉnh theo tuổi ở nam giới và tăng gấp ba ở phụ nữ [20]. Đái tháo đường vẫn là một yếu tố nguy cơ
tim mạch độc lập chính ngay cả khi điều chỉnh theo tuổi tác, tăng huyết áp, hút
thuốc lá, tăng cholesterol máu và phì đại thất trái.
Các quan sát tương tự cũng được ghi nhận
trong MRFIT [30]. Trong số 5.163 nam giới báo cáo dùng thuốc
điều trị bệnh ĐTĐ (chủ yếu là ĐTĐ type 2), 9,7% tử vong do bệnh tim mạch trong
khoảng thời gian 12 năm; tỷ lệ tử vong do tim mạch tương đương ở 342.815 nam giới
không dùng thuốc điều trị bệnh ĐTĐ là 2,6%. Sự khác biệt này không phụ thuộc
vào độ tuổi, nhóm dân tộc, mức cholesterol, huyết áp tâm thu và việc sử dụng
thuốc lá. Tuy nhiên, ở những người đàn ông mắc bệnh ĐTĐ, sự gia tăng nguy cơ
tim mạch tăng mạnh hơn ở những người không mắc ĐTĐ khi bổ sung từng yếu tố nguy
cơ này.
Nhóm cộng tác các yếu tố nguy cơ mới nổi đã
thực hiện phân tích gộp 102 nghiên cứu bao gồm 530.083 bệnh nhân không có tiền
sử NMCT, đau thắt ngực hoặc đột quỵ tại lần khám đầu tiên [21]. Sau khi điều chỉnh các yếu tố nguy cơ khác,
bệnh nhân ĐTĐ có nguy cơ CHD tổng thể cao gấp đôi so với bệnh nhân không mắc
ĐTĐ (tỷ lệ nguy cơ [HR] 2,0, 95% CI 1,8-2,2), với nguy cơ tử vong do tim cao
hơn tương tự (HR 2,3, KTC 95% 2,1-2,6) và NMCT không tử vong (HR 1,8, KTC 95%
1,6-2,0).
2.2. Tăng đường huyết làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch
Nguy cơ tim mạch tăng dần cùng với sự gia
tăng đường huyết ở những bệnh nhân bị bệnh ĐTĐ. Tầm quan trọng của tác động này
đã được minh họa trong một phân tích tổng hợp của 13 nghiên cứu thuần tập tiền [29]. Đối với mỗi sự gia tăng một điểm phần trăm
của glycosylated hemoglobin (HbA1c), nguy
cơ tương đối đối với bất kỳ biến cố tim mạch là 1,18 (KTC 95% 1,10-1,26).
Cũng có thể có mối liên quan giữa HbA1c và mức
độ bệnh mạch vành. Điều này được đề xuất trong một cuộc tổng quan trên 315 bệnh
nhân đái tháo đường được chụp mạch vành vì đau ngực [25]. HbA1c trung bình tăng dần ở những bệnh nhân
có tổn thương không, một, hai, hoặc ba đến bốn mạch (tương ứng là 6,7, 8,0, 8,8
và 10,4, một xu hướng rất có ý nghĩa). Không có sự khác biệt đáng kể giữa bốn
nhóm về thời gian mắc bệnh ĐTĐ hoặc tỷ lệ hút thuốc, tăng huyết áp, hoặc rối loạn
lipid máu.
2.3. Hiệu quả của kiểm soát đường huyết và bệnh tim mạch
Bệnh mạch máu lớn - Tầm quan trọng của việc
kiểm soát đường huyết chuyên sâu để bảo vệ chống lại bệnh mạch máu nhỏ ở người
ĐTĐ type 1 đã được chứng minh trong nghiên cứu DCCT / EDIC.
Trong
DCCT, có một xu hướng không đáng kể là ít biến cố tim mạch hơn ở nhóm điều trị
tích cực (3,2 so với 5,4%), mặc dù có ít biến cố tổng thể ở nhóm người tham gia
thử nghiệm trẻ và khỏe mạnh này [12].
Trong nghiên cứu EDIC, nhóm bệnh ĐTĐ
type 1 ban đầu được ngẫu nhiên điều trị bằng insulin chuyên sâu đã trải qua các
biến cố tim mạch tử vong và không tử vong ít hơn đáng kể, với nguy cơ giảm 57%
(p = 0,02) [24].
Ngoài các kết cục chính về biến cố tim
(MACE), định nghĩa kết cục tim mạch mở rộng "bất kỳ bệnh tim mạch nào
[CVD]," bao gồm MACE và cơn đau thắt ngực được ghi nhận, hoặc tái thông mạch
vành, đã được sử dụng. Trong toàn bộ thời gian theo dõi (trung bình 17 năm), có
một tỷ lệ thấp hơn của bất kỳ biến cố tim mạch nào ở bệnh nhân thuộc nhóm điều
trị tích cực DCCT (0,38 so với 0,80 biến cố trên 100 bệnh nhân-năm với liệu
pháp thông thường) [24], [23]. Điều này thể hiện mức giảm 42% trong bất kỳ
biến cố tim mạch được chỉ định nào (95% CI 9-63 phần trăm).
Mặc dù các phân tích dịch tễ học (nghiên cứu
quan sát hoặc phân tích thứ cấp của các thử nghiệm) cho thấy mối tương quan giữa
tỷ lệ bệnh tim mạch cao hơn (CVD) và tăng đường huyết mãn tính, hầu hết các thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên không chứng minh được tác dụng có lợi của liệu pháp
điều trị tích cực đối với kết cục mạch máu lớn ở bệnh ĐTĐ type 2.
Các thử nghiệm VADT, ACCORD và ADVANCE được
thiết kế để nghiên cứu tác động của liệu pháp điều trị tích cực so với thông
thường (mức A1C đạt khoảng 6,5 so với 7,5 đến 8,5%) đối với kết quả tim mạch ở
những bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ lâu năm (thời gian 8 đến 12 năm) [19], [3], [33], [2], [15], [16], [26]. Không có lợi ích nào cho thấy lợi ích của
việc kiểm soát tích cực, và kết quả từ ACCORD cho thấy sự gia tăng đáng kể về tử
vong chung (tỷ lệ nguy cơ [HR] 1,22) và tử vong do CVD (HR 1,35) khi điều trị
tích cực [19], [16], [1], [31]. Lưu ý, ACCORD nhắm đến A1C <6%, đã sử dụng
tới năm loại thuốc tiểu đường để đạt được mục tiêu về đường huyết và các phân
tích không xác định A1C thấp hơn hoặc hạ đường huyết là các yếu tố nguy cơ dẫn
đến tử vong vượt mức trong nhóm can thiệp tích cực [27], [10].
3. Kiểm soát đường huyết tốt hơn với phương pháp
theo dõi đường huyết liên tục (CGM):
Dữ liệu theo dõi đường huyết liên tục (CGM) có
thể được sử dụng để đo lượng đường trung bình và có thể được sử dụng để bổ sung
cho dữ liệu A1C. Hồ sơ đường huyết lưu động do CGM tạo ra chứa đồ họa cũng như
các chỉ số đo đường huyết, bao gồm cả đường huyết trung bình.
Màn hình hiển thị hồ sơ đường huyết lưu động
của thiết bị CGM chứa đồ họa cũng như các chỉ số đường huyết: thời gian (phần
trăm) trong phạm vi mục tiêu (70 - 180 mg / dL [3,9 đến 10 mmol / L]), thời
gian (phần trăm) hạ đường huyết (<70 mg / dL [3,9 mmol / L] và < 54 mg /
dL [3,0 mmol/L]) và thời gian (phần trăm) tăng đường huyết (> 180 mg / dL
[10,0 mmol / L] và > 250 mg / dL [13,9 mmol / L]) [6] . Sự thay đổi glucose được báo cáo bằng độ lệch
chuẩn và hệ số phần trăm của sự biến đổi.
Hồ sơ đường huyết lưu động CGM cũng chứa chỉ
báo quản lý đường huyết (GMI). GMI là ước tính của A1C dự kiến dựa trên dữ liệu
glucose thu được trong thời gian theo dõi [7], [11]. Nó được suy ra bằng cách sử dụng một phương
trình hồi quy của A1C trong phòng thí nghiệm về đường huyết trung bình được đo
bằng CGM, chủ yếu từ những người mắc ĐTĐ type1 [7]. GMI là một công cụ bổ sung để đánh giá đường
huyết và cần được phân biệt với A1C đo trong phòng thí nghiệm [8]. Nó có thể tương tự, cao hơn hoặc thấp hơn
giá trị A1C trong phòng thí nghiệm.
Các thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên trên những người ĐTĐ type 1 đã chứng minh rằng sử dụng CGM có thể
cải thiện A1C [5], [22], [28] và
giảm các đợt hạ đường huyết [18] [9], [32]. Không có thử nghiệm lâm sàng dài hạn nào cho thấy lợi ích trực tiếp của
việc sử dụng CGM đối với các biến chứng mạch máu lớn và nhỏ [4]. Ngày càng có nhiều sự quan tâm đến việc sử
dụng công nghệ này ở những người ĐTĐ type 2 và các quần thể bệnh nhân khác, bao
gồm cả người mang thai có đường huyết khó kiểm soát. CGM có thể đặc biệt hữu
ích ở những bệnh nhân cần theo dõi đường huyết thường xuyên, chẳng hạn như
trong việc thiết lập một chế độ insulin chuyên sâu. Cần
có thêm nhiều nghiên cứu để hiểu cách tối ưu hóa việc sử dụng CGM trong thực
hành lâm sàng, đặc biệt đối với người lớn mắc ĐTĐ type 2.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. ACCORD Study Group,%J New England Journal
of Medicine, (2011), "Long-term
effects of intensive glucose lowering on cardiovascular outcomes",
364(9), p. 818-828.
2. ACCORD Study Group,ACCORD Eye Study Group
%J New England Journal of Medicine, (2010), "Effects of medical therapies on retinopathy progression in type 2
diabetes", 363(3), p. 233-263.
3. ADVANCE Collaborative Group,%J New
England journal of medicine, (2008), "Intensive
blood glucose control and vascular outcomes in patients with type 2
diabetes", 358(24), p. 358-2560.
4. Battelino Tadej, Thomas Danne, Richard M
Bergenstal, et al., (2019), "Clinical
targets for continuous glucose monitoring data interpretation: recommendations
from the international consensus on time in range", 42(8), p. 1593.
5. Beck Roy W, Tonya Riddlesworth, Katrina
Ruedy, et al., (2017), "Effect of
continuous glucose monitoring on glycemic control in adults with type 1
diabetes using insulin injections: the DIAMOND randomized clinical trial",
317(4), p. 371.
6. Bergenstal Richard M, Andrew J Ahmann,
Timothy Bailey, et al., Recommendations
for standardizing glucose reporting and analysis to optimize clinical decision
making in diabetes: the Ambulatory Glucose Profile (AGP). 2013, Mary Ann
Liebert, Inc. 140 Huguenot Street, 3rd Floor New Rochelle, NY 10801 USA. p. 7 -
562.
7. Bergenstal Richard M, Roy W Beck, Kelly L
Close, et al., (2018), "Glucose
management indicator (GMI): a new term for estimating A1C from continuous
glucose monitoring", 41(11), p. 2275.
8. Bergenstal Richard M, Roy W Beck, Kelly L
Close, et al., (2019), "Glucose
management indicator (GMI): a new term for estimating A1C from continuous
glucose monitoring", 41(11), p. e28.
9. Bolinder Jan, Ramiro Antuna, Petronella
Geelhoed-Duijvestijn, et al., (2016), "Novel
glucose-sensing technology and hypoglycaemia in type 1 diabetes: a multicentre,
non-masked, randomised controlled trial", 388(10057), p. 2254.
10. Bonds Denise E, Michael E Miller, Richard M
Bergenstal, et al., (2010), "The
association between symptomatic, severe hypoglycaemia and mortality in type 2
diabetes: retrospective epidemiological analysis of the ACCORD study",
340.
11. Carlson Anders L, Amy B Criego, Thomas W
Martens, et al., (2020), "HbA1c: the
glucose management indicator, time in range, and standardization of continuous
glucose monitoring reports in clinical practice", 49(1), p. 95.
12. Control The Diabetes,Complications Trial
DCCT Research %J The American Journal of Cardiology Group, (1995), "Effect of intensive diabetes management on
macrovascular events and risk factors in the Diabetes Control and Complications
Trial", 75(14), p. 75-894.
13. De Backer Guy, Ettore Ambrosioni, Knut
Borch-Johnsen, et al., (2003), "European
guidelines on cardiovascular disease prevention in clinical practice; third
joint task force of European and other societies on cardiovascular disease
prevention in clinical practice (constituted by representatives of eight
societies and by invited experts)", 10(4), p. S1-S10.
14. Detection National Cholesterol Education
Program . Expert Panel on,Treatment of High Blood Cholesterol in Adults,(2002),
"Third report of the National Cholesterol Education Program (NCEP) Expert
Panel on detection, evaluation, and treatment of high blood cholesterol in
adults (Adult Treatment Panel III)".
The Program.
15. Duckworth William, Carlos Abraira, Thomas
Moritz, et al., (2009), "Glucose
control and vascular complications in veterans with type 2 diabetes",
360(2), p. 129-360.
16. Gerstein HC, ME Miller,RP Byingston,
(2010), "Action to control
cardiovascular risk in diabetes study gruop. Effects of intensive glucose
lowering in type 2 diabetes", p. 358-2545.
17. Haffner Steven M, Seppo Lehto, Tapani
Rönnemaa, et al., (1998), "Mortality
from coronary heart disease in subjects with type 2 diabetes and in nondiabetic
subjects with and without prior myocardial infarction", 339(4), p. 339
- 229.
18. Hermanns Norbert, Beatrix Schumann,
Bernhard Kulzer, et al., (2014), "The
impact of continuous glucose monitoring on low interstitial glucose values and
low blood glucose values assessed by point-of-care blood glucose meters:
results of a crossover trial", 8(3), p. 516.
19. Ismail-Beigi Faramarz, Timothy Craven, Mary
Ann Banerji, et al., (2010), "Effect
of intensive treatment of hyperglycaemia on microvascular outcomes in type 2
diabetes: an analysis of the ACCORD randomised trial", 376(9739), p.
376-419.
20. Kannel WILLIAM B,DANIEL L %J Circulation
McGee, (1979), "Diabetes and
cardiovascular risk factors: the Framingham study", 59(1), p. 8 - 59.
21. Lancet Emerging Risk Factors Collaboration
%J The, (2010), "Diabetes mellitus,
fasting blood glucose concentration, and risk of vascular disease: a
collaborative meta-analysis of 102 prospective studies", 375(9733), p.
2215-2222.
22. Lind Marcus, William Polonsky, Irl B
Hirsch, et al., (2017), "Continuous
glucose monitoring vs conventional therapy for glycemic control in adults with
type 1 diabetes treated with multiple daily insulin injections: the GOLD
randomized clinical trial", 317(4), p. 379.
23. Nathan David M, Margaret Bayless, Patricia
Cleary, et al., (2013), "Diabetes
control and complications trial/epidemiology of diabetes interventions and
complications study at 30 years: advances and contributions", 62(12),
p. 62-3976.
24. Nathan David M, Patricia Cleary, Backlund
JY, et al., "Intensive diabetes
treatment and cardiovascular disease in patients with type 1 diabetes",
N Engl J Med 2005. p. 353-2643.
25. Ravipati Gautham, Wilbert S Aronow, Chul
Ahn, et al., (2006), "Association of
hemoglobin A1c level with the severity of coronary artery disease in patients
with diabetes mellitus", 97(7), p. 97-968.
26. Reaven Peter D, Nicholas V Emanuele, Wyndy
L Wiitala, et al., (2019), "Intensive
glucose control in patients with type 2 diabetes—15-year follow-up",
380(23), p. 380-2215.
27. Riddle Matthew C, Walter T Ambrosius, David
J Brillon, et al., (2010), "Epidemiologic
relationships between A1C and all-cause mortality during a median 3.4-year
follow-up of glycemic treatment in the ACCORD trial", 33(5), p.
983-990.
28. Riddlesworth Tonya, David Price, Nathan
Cohen, et al., (2017), "Hypoglycemic
event frequency and the effect of continuous glucose monitoring in adults with
type 1 diabetes using multiple daily insulin injections", 8(4), p. 947
29. Selvin Elizabeth, Spyridon Marinopoulos,
Gail Berkenblit, et al., (2004), "Meta-analysis:
glycosylated hemoglobin and cardiovascular disease in diabetes mellitus",
141(6), p. 141-421.
30. Stamler Jeremiah, Olga Vaccaro, James D
Neaton, et al., (1993), "Diabetes,
other risk factors, and 12-yr cardiovascular mortality for men screened in the
Multiple Risk Factor Intervention Trial", 16(2), p. 16 - 434
31. The National Heart Lung, and Blood
Institute, (2008), Action to Control
Cardiovascular Risk in Diabetes (ACCORD) Trial: Questions and Answers about the
ACCORD Trial. 2008; Available from: http://www.nhlbi.nih.gov/health/prof/heart/other/accord/
32. van Beers Cornelis AJ, J Hans DeVries, Susanne
J Kleijer, et al., (2016), "Continuous
glucose monitoring for patients with type 1 diabetes and impaired awareness of
hypoglycaemia (IN CONTROL): a randomised, open-label, crossover trial",
4(11), p. 893.
33. Zoungas Sophia, John Chalmers, Bruce Neal,
et al., (2014), "Follow-up of
blood-pressure lowering and glucose control in type 2 diabetes",
371(15), p. 371-1392.